Thứ tư, 08/01/2025
 NămSố
 Từ khóa
 Tác giả
Tìm thông tin khác
Định danh một số loài mạt bụi nhà phân lập ở Việt Nam bằng phương pháp sinh học phân tử
Nghiên cứu sự thay đổi năng lực sức khỏe tâm thần về trầm cảm và rối loạn lo âu của giáo viên trung học phổ thông tại Hà Nội năm 2024
Chỉ số nhân trắc của học sinh dân tộc Gia Rai và Ba Na so với dân tộc Kinh tại trường trung học phổ thông tỉnh Gia Lai, năm 2022
Trang: 79
Tập 34, số 7 2024 Phụ bản

Giám sát muỗi Aedes albopictus bằng bẫy BG (Biogents Bentinel Trap) tại tỉnh Tiền Giang và Bình Dương năm 2022

Surveillance of Aedes albopictus mosquitoes using BG traps (Biogents Sentinel Trap) in Tien Giang and Binh Duong provinces in 2022
Tác giả: La Hoàng Huy, Lý Huỳnh Kim Khánh, Phạm Thị Thuý Ngọc, Lê Thanh Tùng, Ngô Minh Danh, Lê Trọng Thảo Ly, Đỗ Lệ Quyên, Nguyễn Thị Ngọc Diễm, Nguyễn Lê Quế Lâm
Tóm tắt:
Nghiên cứu này nhằm giám sát muỗi Aedes albopictus tại TP. Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang và TP. Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương bằng cách sử dụng bẫy BG. Nghiên cứu đã triển khai đặt 78 bẫy mỗi tuần tại Mỹ Tho và 181 bẫy mỗi tuần tại Thủ Dầu Một, trong 25 tuần. Kết quả cho thấy tổng số muỗi thu thập là 248.512 cá thể, trong đó Mỹ Tho thu thập được 118.144 cá thể và Thủ Dầu Một thu thập được 130.368 cá thể. Tỷ lệ muỗi Aedes albopictus tại Mỹ Tho là 3,94%, trong khi tại Thủ Dầu Một là 8,90%. Trong tổng số 16.263 cá thể muỗi Aedes albopictus được thu thập, tỷ lệ muỗi cái chiếm 80,54%. Mật độ muỗi tại Mỹ Tho dao động nhẹ quanh mức 1,08-3,53 muỗi cái/bẫy/tuần. Ở điểm Thủ Dầu Một, mật độ muỗi cái Aedes albopictus thu thập có xu hướng biến động mạnh hơn so với Mỹ Tho với mật độ 1,19-4,25 muỗi cái Aedes albopictus/bẫy/ tuần. Tỉ lệ bẫy BG dương tính ở điểm Mỹ Tho là 56,15% và ở điểm Thủ Dầu Một là 60,99%. Nghiên cứu kết luận rằng bẫy BG hiệu quả trong việc giám sát muỗi Aedes albopictus. Tuy nhiên để tối ưu hóa hiệu quả giám sát muỗi cần quản lý bẫy tốt. Kết quả nghiên cứu cung cấp cơ sở cho việc kiểm soát và phòng chống muỗi hiệu quả hơn trong tương lai.
Summary:
This study aimed to survey Aedes albopictus mosquitoes in My Tho City, Tien Giang Province, and Thu Dau Mot City, Binh Duong Province using BG traps. The study deployed 78 traps weekly in My Tho and 181 traps weekly in Thu Dau Mot, in 25 weeks. Results showed a total of 248,512 mosquitoes collected, with 118,144 individuals from My Tho and 130,368 individuals from Thu Dau Mot. The proportion of Aedes albopictus mosquitoes in My Tho was 3.94%, while in Thu Dau Mot it was 8.90%. Among the total 16,263 Aedes albopictus mosquitoes collected, 80.54% were females. The mosquito density in My Tho fluctuated slightly around 1.08-3.53 female mosquitoes/trap/week. In Thu Dau Mot, the density of female Aedes albopictus mosquitoes showed more significant fluctuations compared to My Tho, with densities of 1.19-4.25 female Aedes albopictus mosquitoes/trap/week. The positive BG trap rate in My Tho was 56.15%, and in Thu Dau Mot it was 60.99%. The study concludes that BG traps are effective for surveillance Aedes albopictus mosquitoes. However, proper trap management is crucial to optimize mosquito surveillance effectiveness. The study results provide a basis for more effective mosquito control and prevention in the future.
Từ khóa:
Bẫy BG; Aedes albopictus; giám sát muỗi
Keywords:
BG trap, Aedes albopictus, Surveillance mosquitoes
DOI: https://doi.org/10.51403/0868-2836/2024/2014
File nội dung:
o240779.pdf
Tải file:
Tải file với tiền ảo trong tài khoản thành viên.
Thông tin trong cùng số xuất bản:
Ngày 14 – 15/6/2024 Hội Thính học Việt Nam đã phối hợp cùng Liên Chi hội Thính học Thành phố Hồ Chí Minh, Liên Chi hội Tai Mũi Họng Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam tổ chức Hội nghị Khoa học Thính Học – Tai Mũi Họng Quốc tế lần thứ III
Website tcyhdp.vjpm.vn được phát triển bởi đơn vị thiết kế web: MIP™ (www.mip.vn - mCMS).
log